Bắt giữ tàu biển để đảm bảo giải quyết khiếu nại hàng hải là hoạt động bắt giữ tàu phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Hiện có nhiều điều ước quốc tế điều chỉnh vấn đề này như Công ước Luật Biển năm 1982, Công ước Brussels 1952 về bắt giữ tàu biển, Công ước năm 1967 về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến cầm giữ và cầm cố tàu biển, Công ước 1999 về bắt giữ tàu biển... Trong đó, Công ước năm 1999 về bắt giữ tàu biển được coi là điều ước quốc tế có tính kế thừa và hoàn thiện hơn cả. Phù hợp với pháp luật quốc tế, Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bắt giữ tàu biển trong vùng biển Việt Nam.Các quy định trong nước về bắt giữ tàu biển Bắt giữ tàu biển đã được quy định cụ thể tại Mục 8, Chương II, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 (BLHHVN 2005); Pháp lệnh số 05/2008/PL-UBTVQH12 ngày 27/8/2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thủ tục bắt giữ tàu biển; Nghị định số 57/2010/NĐ-CP ngày 25/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển và các văn bản có liên quan khác. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động về bắt giữ tàu biển (về cơ chế, bộ máy cơ quan có thẩm quyền và kinh phí thực hiện việc bắt giữ tàu biển), cụ thể: Thứ nhất, theo quy định của BLHHVN 2005 và Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định bắt giữ hoặc thả tàu biển theo quy định là Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi có cảng biển, cảng thủy nội địa mà tàu biển bị yêu cầu bắt giữ đang hoạt động hàng hải. Cơ quan này có thẩm quyền quyết định bắt giữ tàu để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải, thi hành án dân sự, thực hiện ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài. Trường hợp cảng có nhiều bến cảng thuộc địa phận các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi có bến cảng mà tàu biển bị yêu cầu bắt giữ đang hoạt động hàng hải có thẩm quyền quyết định bắt giữ tàu biển đó. Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ án dân sự, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển. Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện và phối hợp thực hiện bắt giữ tàu biển, gồm có các cơ quan sau: Giám đốc Cảng vụ hàng hải hoặc Giám đốc Cảng vụ thủy nội địa (Giám đốc Cảng vụ) nơi tàu biển đang hoạt động hàng hải bị yêu cầu bắt giữ có quyền thực hiện quyết định bắt giữ tàu hoặc quyết định thả tàu biển đang bị bắt giữ của Tòa án; Các cơ quan quản lý nhà nước về hàng hải, an ninh, kiểm dịch, hải quan, thuế, văn hóa – thông tin, phòng chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường và các cơ quan quản lý nhà nước khác có trách nhiệm phối hợp thực hiện quyết định bắt giữ tàu biển khi có yêu cầu của Giám đốc Cảng vụ và chịu sự điều hành trong việc phối hợp thực hiện quyết định bắt giữ tàu biển của Giám đốc Cảng vụ. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có trách nhiệm phối hợp thực hiện quyết định bắt giữ tàu biển khi có yêu cầu của Giám đốc Cảng vụ. Thứ ba, trình tự thủ tục bắt giữ tàu biển để đảm bảo giải quyết khiếu nại hàng hải đã được quy định khá chi tiết tại Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển, Nghị định số 57/2010/NĐ-CP, theo đó, người có quyền yêu cầu bắt giữ tàu biển phải gửi đơn tới Tòa án có thẩm quyền. Sau đó, Tòa án sẽ phân công một thẩm phán để xem xét, giải quyết đơn yêu cầu bắt giữ. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận đơn, thẩm phán sẽ xem xét các căn cứ pháp lý và chứng cứ, tài liệu cần thiết xem có thụ lý đơn yêu cầu bắt giữ tàu hay không. Nếu đơn đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì ngay khi người có yêu cầu bắt giữ tàu xuất trình các biên lai, chứng từ chứng minh họ đã thực hiện các nghĩa vụ về lệ phí và biện pháp đảm bảo tài chính thì thẩm phán được phân công sẽ ra quyết định bắt giữ tàu để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải. Quyết định này có thể bị khiếu nại, kiến nghị bởi thuyền trưởng, chủ tàu, người thuê tàu trần, người khai thác tàu, Viện kiểm sát cùng cấp... Tiếp đến, Giám đốc Cảng vụ hàng hải sẽ ra thông báo thực hiện quyết định bắt giữ tàu biển. Khi thực hiện quyết định này, Giám đốc Cảng vụ hàng hải có quyền chỉ định vị trí neo đậu và đưa ra các yêu cầu hạn chế hoạt động, di chuyển đối với tàu biển bị bắt giữ; thu hồi giấy phép rời cảng nếu tàu biển đã được cấp giấy phép rời cảng; đồng thời quyết định việc truy đuổi tàu biển và yêu cầu lực lượng bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, cảnh sát giao thông đường thủy thực hiện việc truy đuổi tàu biển có quyết định bắt giữ đã rời cảng hoặc tự ý rời vị trí được chỉ định… Như vậy, các quy định trong nước đã quy định khá chi tiết về trình tự thực hiện quyết định bắt giữ tàu biển. Thứ tư, đối với chi phí thực hiện bắt giữ tàu biển và duy trì hoạt động tàu biển trong thời gian bị bắt giữ, theo Thông tư liên tịch số 220/2012/TTLT-BTC-BGTVT ngày 24/12/2012 của Bộ Tài chính – Bộ GTVT thì nguồn ngân sách nhà nước được sử dụng để chi cho việc thực hiện truy đuổi tàu biển, chi phí tống đạt Quyết định bắt giữ tàu biển của Tòa án, chi phí sử dụng phương tiện thực hiện nhiệm vụ, chi phí duy trì hoạt động của tàu biển trong thời gian bị bắt giữ, chi phí sinh hoạt, tiền công của thuyền viên… Theo Thông tư này, hàng năm Bộ GTVT (Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam), Sở GTVT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập dự toán chi cho các nội dung thực hiện bắt giữ và duy trì hoạt động của tàu biển trong thời gian bị bắt giữ theo phân cấp ngân sách hiện hành, gửi cơ quan tài chính cùng cấp để tổng hợp trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Thứ năm, hiện nay, Việt Nam cũng đã xác định được các tổ chức bảo hiểm có uy tín trong lĩnh vực hàng hải theo quy định tại Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển. Các doanh nghiệp này đã được quy định tại Quyết định số 2023/QĐ-BTC ngày 4/8/2012 của Bộ Tài chính. Có thể nói, hệ thống các quy định pháp luật trong nước đã cho thấy những nỗ lực không ngừng của Nhà nước ta trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bắt giữ tàu biển. Để có được sản phẩm pháp lý như vậy, các nhà làm luật đã nghiên cứu cụ thể về phương diện quản lý cũng như thực tiễn hoạt động hàng hải; đồng thời có tham khảo và vận dụng các quy định quốc tế về bắt giữ tàu biển như: Công ước Brussels 1952, Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển năm 1999, qua đó cụ thể hóa và hạn chế sự xung đột giữa quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. Một số “tồn tại” trong quy định pháp luật về bắt giữ tàu biển Hệ thống văn bản pháp luật của nước ta tuy đã được bổ sung, sửa đổi song một số điểm vẫn còn quy định chung nên còn nhiều bất cập trong quá trình thực hiện, do vậy, cần tiếp tục rà soát để bổ sung, sửa đổi hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cụ thể: Thứ nhất, tính minh bạch – tính hợp lý - tính thống nhất – tính khả thi trong bảo đảm tài chính cho yêu cầu bắt giữ. BLHHVN 2005, Nghị định số 57/2010/NĐ-CP ngày 25/5/2010 quy định để thực hiện việc bắt giữ tàu biển, người yêu cầu bắt giữ phải bảo đảm tài chính theo hình thức và giá trị do Tòa án quy định tương đương với thiệt hại có thể phát sinh do việc yêu cầu bắt giữ tàu biển. Bộ Tài chính là cơ quan được giao hướng dẫn chi tiết việc bảo đảm chi phí thực hiện bắt giữ tàu biển từ Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên cho đến nay, Bộ này vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện, gây ảnh hưởng và khó khăn trong quá trình thực hiện bắt giữ tàu biển theo lệnh của Tòa án. Hơn nữa, quy định này cũng gây khó khăn bởi trên thực tế giá trị tàu thường lớn (vài triệu USD) nên không thể có khoản đặt cọc nào được thực hiện dù phía yêu cầu bắt giữ đã xuất trình đủ các tài liệu chứng minh quyền lợi của mình bị xâm hại. Thứ hai, Điều 14 Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu biển quy định thời hạn bắt giữ tàu biển nhằm giải quyết khiếu nại hàng hải là 30 ngày. Trong thời hạn tàu biển bị bắt giữ để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải nếu người yêu cầu bắt giữ tàu biển khởi kiện vụ án tại Tòa án hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và tiếp tục có yêu cầu bắt giữ tàu biển thì thời hạn bắt giữ tàu biển để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải chấm dứt khi Tòa án có quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm cho rằng thời hạn 30 ngày là tương đối dài vì việc bắt giữ tàu có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của cả bên yêu cầu bắt giữ và bên có tàu bị bắt giữ, do vậy cần được thực hiện khẩn trương và nhanh chóng. Thứ ba, bắt giữ tàu biển để thi hành án dân sự, thực hiện tương trợ tư pháp: BLHHVN 2005 mới quy định về bắt giữ tàu biển, nguyên tắc về quyền bắt giữ tàu biển để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải, các khiếu nại làm phát sinh quyền bắt giữ tàu biển, đặc biệt cho phép Toà án quyết định bắt giữ tàu biển để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải nhưng lại không bao gồm việc bắt giữ tàu biển để thi hành án dân sự, thực hiện tương trợ tư pháp. Vì vậy, kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung BLHHVN 2005 về bắt giữ tàu biển để đảm bảo thi hành án dân sự, thực hiện tương trợ tư pháp, có như vậy mới có cơ sở pháp lý khi áp dụng bắt giữ tàu biển được đầy đủ, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển. Ngoài ra, dù chưa gia nhập Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển năm 1999 nhưng các quy định của pháp luật Việt Nam về bắt giữ tàu biển bước đầu đã có sự hoàn thiện và dần hướng đến các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế. Thiết nghĩ, việc gia nhập Công ước 1999 sẽ là cơ sở quan trọng để tòa án, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chủ động hơn trong việc giải quyết các khiếu nại hàng hải, đồng thời quyền lợi của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển Việt Nam sẽ được bảo vệ khi có tàu bị bắt giữ tại nước ngoài, đặc biệt tại các quốc gia tham gia Công ước. Do đó, việc gia nhập Công ước 1999 cũng cần được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tính đến trong thời gian tới.