10/06/2013

Nằm trong chuỗi hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2013, chiều 07/6, tại TP. Hà Tĩnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp UBND tỉnh Hà Tĩnh tổ chức Diễn đàn Kinh tế biển Việt Nam lần thứ 4 với Chủ đề: "Phát triển kinh tế biển xanh: Triển vọng và thách thức". Tham dự diễn đàn có đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành T.Ư; 28 tỉnh, thành phố ven biển cùng các nhà khoa học, quản lý, các hiệp hội trong và ngoài nước. Về phía Cục HHVN, Cục trưởng Nguyễn Nhật đã tham dự và có bài tham luận tại Diễn đàn. Trang thông tin điện tử Cục HHVN xin đăng toàn văn Bài phát biểu của Cục trưởng Nguyễn Nhật tại Diễn đàn này: Thế kỷ 21 được xem là “Thế kỷ của biển và đại dương”. Khai thác nguồn lợi biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện bùng nổ dân số, các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đã và đang hướng ra biển, thực hiện các giải pháp biến biển thành lãnh địa, không gian kinh tế mới. Được thiên nhiên ưu đãi, chúng ta có “mặt tiền” bờ biển dài hơn hơn 3.260km, với 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế cùng hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu. Suốt dọc chiều dài đất nước Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố có biển với dân số khoảng 20 triệu người chiếm 22% dân số cả nước, chúng ta đã hình thành nên các đô thị biển sầm uất; nhiều trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng biển - đảo nổi tiếng trong nước và quốc tế cùng các làng đánh cá xa khơi truyền thống và các trung tâm nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản. Đặc biệt hình thành chuỗi cảng nước sâu như Cái Lân – Quảng Ninh; Lạch Huyện – Hải Phòng; Nghi Sơn – Thanh Hóa; Sơn Dương - Vũng Áng – Hà Tĩnh; Liên Chiểu – Đà Nẵng; Dung Quất – Quảng Ngãi; Vân Phong – Khánh Hòa, Cái Mép, Thị Vải – Bà Rịa Vũng Tàu… Với đặc thù là một quốc gia vừa mang tính chất hải dương – án ngữ tuyến hàng hải quan trọng bậc nhất trên thế giới qua biển Đông, vừa mang tính chất lục địa - với hậu phương rộng lớn phía sau là các quốc gia Lào, Campuchia, Thái Lan và Trung Quốc. Đây là một tiềm năng, lợi thế của Việt Nam về nguồn lực, địa lý, địa chính trị cho phát triển kinh tế biển nói chung, kinh tế hàng hải nói riêng phục vụ cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với tiềm năng to lớn về địa chính trị để phát triển kinh tế biển, Việt Nam hội tụ nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực hàng hải. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đến nay Việt Nam đã ký hiệp định hàng hải thương mại với 21 quốc gia tạo điều kiện cho ngành Hàng hải Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào thị trường hàng hải khu vực và quốc tế. Hiệp định cũng là cơ sở để Việt Nam và các bên đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực phát triển hệ thống cảng biển quốc gia, đóng tàu, vận tải biển, đào tạo cán bộ, thuyền viên, và các dịch vụ vận tải đường biển khác. Đối với lĩnh vực phát triển hệ thống cảng biển, Việt Nam xác định hệ thống cảng biển quốc gia là một bộ phận kết cấu hạ tầng giao thông vận tải quan trọng không chỉ đáp ứng tốt các yêu cầu về bốc xếp, bảo quản, chuyển tiếp hàng hóa, hành khách phát sinh từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong nước; mà còn có vai trò động lực thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới giữa các vùng, miền, địa phương ven biển và của cả nước, là cơ sở để vươn ra biển xa phát triển kinh tế hàng hải. Trong những năm qua, hệ thống cảng biển Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu. Đến nay, chúng ta đã phát triển được 162 bến cảng, 345 cầu cảng với tổng chiều dài khoảng 44.000m, công suất thông qua gần 380 triệu tấn/năm; hình thành hệ thống cảng với 06 nhóm cảng biển trên cả nước trong đó có hai cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng và Bà Rịa – Vũng Tàu có thể tiếp nhận tàu có tải trọng trên 100.000 DWT (tàu container đến 8.000 TEU) và một cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong – Khánh Hòa. Hiện nay hai cảng cửa ngõ quốc tế đang được tiến hành đầu tư. Đối với cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, Cục Hàng hải Việt Nam đang tiến hành rà soát điều chỉnh quy hoạch làm cơ sở hoạch định các chính sách kêu gọi, thu hút các tổ chức trong và ngoài nước tham gia đầu tư. Một lợi thế nữa cho phát triển hạ tầng cảng biển là cả nước đã hình thành 15 khu kinh tế ven biển, các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như hệ thống cảng cạn (ICD) gắn liền với cảng biển tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế các vùng miền, địa phương ven biển và các hành lang kinh tế xuyên quốc gia. Một số tỉnh, thành đã tận dụng lợi thế về phát triển triển kinh tế hàng hải để phát triển nhanh, mạnh kinh tế địa phương điển hình như Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bà Rịa – Vũng Tàu và TP.Hồ Chí Minh… Đối với lĩnh vực phát triển vận tải biển và các dịch vụ hàng hải, Việt Nam có đội tàu biển quốc gia với tổng trọng tải đứng vào thứ 31 của thế giới. Sản lượng vận chuyển hàng hóa của đội tàu biển Việt Nam năm 2012 đạt 100,6 triệu tấn, với trên 173 tỷ tấn hàng hoá luân chuyển, trong đó vận tải quốc tế đạt trên 69,7 triệu tấn, vận tải trong nước đạt 30,84 triệu tấn. Đối với lĩnh vực phát triển dịch vụ logistics: Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam gần như mở cửa hoàn toàn lĩnh vực vận tải biển và các dịch vụ hàng hải tạo cơ hội rất lớn cho các đối tác và nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Theo đó, các công ty vận tải biển nước ngoài được phép thành lập liên doanh với vốn góp không quá 51% ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO và được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để thực hiện các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động vận tả biển của chính công ty đó; nhà cung cấp dịch vụ vận tải đường biển quốc tế được sử dụng 10 loại dịch vụ tại cảng dựa trên các điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử gồm: hoa tiêu, lai dắt, cung cấp lương thực, thực phẩm, nhiên liệu và nước; thu gom nước và nước dằn thải; dịch vụ của cảng vụ; phao tiêu báo hiệu; các dịch vụ trên bờ cần thiết cho hoạt động của tàu, bao gồm thông tin liên lạc, cung cấp điện và nước; trang thiết bị sửa chữa khẩn cấp; dịch vụ neo đậu, cặp cầu và neo buộc tàu; tiếp cận các dịch vụ đại lý hàng hải. Việt Nam cũng là điểm đến mang lại nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực đóng mới và sửa chữa tàu biển. Mặc dù khủng hoảng kinh tế thế giới trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến ngành đóng tàu, tuy nhiên với lợi thế về bờ biển dài và nằm gần với tuyến hàng hải quốc tế Việt Nam có cơ hội hình thành các cơ sở đóng tàu trọng tải lớn. Việt Nam hiện có các nhà máy đóng tàu mới và sửa chữa tàu ở khắp 3 khu vực Bắc, Trung, Nam như Nam Triệu, Bạch Đằng, Phà Rừng, Dung Quất, Huyndai – Vinashin, Sài Gòn, Cần Thơ… với năng lực có thể đóng các loại tàu chở hàng có trọng tải tới 300.000 DWT; tàu chở container; tàu chuyên dùng phục vụ cho khai thác dầu khí; tàu khách… Các nhà máy này có đủ năng lực để sửa chữa đồng bộ các phần vỏ, máy, điện, điện tử, thiết bị điều khiển tự động cho các loại tàu có tải trọng đến 400.000 DWT. Lĩnh vực hàng hải của Việt Nam còn có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, đội ngũ thuyền viên được huấn luyện, đào tạo theo đúng các tiêu chuẩn, yêu cầu của Công ước quốc tế STCW, đáp ứng được nhu cầu trong nước và làm việc trên các tàu biển nước ngoài. Về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Hàng hải, Việt Nam có 5 trường đại học trên cả nước cung cấp các chương trình đào tạo nhân lực cho Ngành như Đại học Hàng hải Hải Phòng, Đại học GTVT TP. Hồ Chí Minh, Đại học Công nghệ Hà Nội, Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh, Đại học Nha Trang. Ngoài ra, Cục Hàng hải Việt Nam có các cơ sở đào tạo nhân lực cho Ngành như Trường Cao đẳng Hàng hải 1 tại Hải Phòng và Trường Cao đẳng Nghề Hàng hải tại TP. Hồ Chí Minh. Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết số 13/NQ-TW ngày 16/01/2012 về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020, ngành Hàng hải Việt Nam đã và đang tiếp tục hoàn thiện thể chế về hàng hải, hoàn thiện các quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển, công nghiệp đóng tàu, đội tàu biển và dịch vụ vận tải biển để tạo động lực thúc đẩy các hành lang kinh tế, các khu kinh tế gắn với biển. Trong đó, từ nay đến năm 2020, tập trung vào một số các dự án trọng tâm như sau: Dự án cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện: bên cạnh việc đẩy mạnh triển khai đầu tư 02 bến khởi động tiếp nhận tàu 100.000DWT để đưa vào khai năm 2016, tiếp tục kêu gọi sự quan tâm của các Nhà đầu tư phát triển cảng Lạch Huyện giai đoạn đến năm 2020 theo quy hoạch đã được phê duyệt gồm 08 bến (03 bến tổng hợp cho tàu trọng tải đến 50.000DWT và 05 bến container cho tàu trọng tải từ 50.000-100.000DWT), công suất thông qua từ 28-34 triệu tấn; Dự án cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong: là vị trí có ưu thế về điều kiện tự nhiên với chiều dài đường bờ trên 10km, với độ sâu tự nhiên lớn, không tốn kém trong tư hạ tầng đê chắn sóng, luồng tàu vào cảng, cho phép tiếp nhận tàu container trọng tải lớn nhất hiện nay 18.000TEU, Vân Phong hội tụ đủ những điều kiện cần để phát triển một cảng trung chuyển container tầm cỡ quốc tế. Chính phủ Việt Nam kêu gọi sự quan tâm của các nhà đầu tư, nhà khai thác cảng, các hàng tàu quốc tế tham gia phát triển cảng Vân Phong. Dự án nâng cấp tuyến luồng tàu biển Cái Mép-Thị Vải: Đây là dự án đang được Cục hàng hải Việt Nam triển khai nghiên cứu để đảm bảo cho tàu trọng tải đến và trên 100.000DWT có thể ra vào các bến cảng khu vực Cái Mép-Thị Vải thường xuyên (hiện nay tàu trên 80.000DWT phải thực hiện trong các điều kiện hạn chế hành hải); Dự án luồng cho tàu trọng tải 10.000DWT (20.000DWT giảm tải) vào sông Hậu: đây là dự án đang được Cục Hàng hải Việt Nam triển khai bằng nguồn vốn ngân sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và phát triển giao thương hàng hóa cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tập trung phát triển dịch vụ kinh tế biển; đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển và phát triển logistics. Cũng như các tỉnh ven biển, Hà Tĩnh đang nỗ lực hết mình nhằm phát triển nhanh, mạnh kinh tế biển và bước đầu đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Khu kinh tế Vũng Áng – Hà Tĩnh là một trong 05 khu kinh tế ven biển được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ưu tiên phát triển giai đoạn 2013-2015. Đây là ưu thế lớn cho việc phát triển khu kinh tế Vũng Áng nói riêng, phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh và khu vực nói chung. Đến nay, riêng khu Kinh tế Vũng Áng đã thu hút hàng trăm dự án đầu tư trong và ngoài nước với số vốn đầu tư lên đến hàng chục tỷ USD. Cảng Vũng Áng với hai khu bến đưa vào quản lý, khai thác hiệu quả đã tạo tiền đề cho việc xem xét đầu tư các bến tiếp theo nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa của Hà Tĩnh và khu vực lân cận cũng như hàng hóa xuất nhập khẩu và quá cảnh của nước bạn Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Với chủ trương đa dạng hóa hình thức đầu tư , khai thác và quản lý cảng biển, bến cảng số 3 cảng Vũng Áng đang được kêu gọi đầu tư theo mô hình công tư kết hợp (PPP). Căn cứ vào Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết cảng Sơn Dương ngày 28 tháng 7 năm 2009 của Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng hải Việt Nam đã phê duyệt quy hoạch xây dựng bến cảng chuyên dùng Khu liên hợp Gang thép Sơn Dương Formosa Hà Tĩnh bao gồm 13 bến cảng trong giai đoạn I, trong đó bố trí 3 bến cho tàu có trọng tải 300.000 DWT, 2 bến cho tàu trọng tải 200.000 DWT, và 8 bến còn lại cho các cỡ tàu từ 10.000 đến 70.000 tấn. Cảng Sơn Dương sau khi hoàn thành sẽ trở thành cảng chuyên dụng lớn nhất Việt Nam cho tàu tải trọng 300.000 DWT ra, vào làm hàng phục vụ nhà máy luyện thép và nhiệt điện. Cảng biển Vũng Áng - Sơn Dương thực sự là một cửa mở lớn của khu vực Bắc miền Trung thúc đẩy đầu tư phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ riêng tỉnh Hà Tĩnh mà còn là đầu mối thúc đẩy hành lang kinh tế từ cảng biển Sơn Dương – Vũng Áng qua cửa khẩu Cầu Treo sang nước bạn Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thương mại hàng hải ngày càng giữ vai trò trọng yếu trong thương mại toàn cầu. Là một quốc gia đang đà phát triển theo hướng công nghiệp, thương mại, dịch vụ, Việt Nam tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ đồng bộ thống hạ tầng thiết yếu trong đó có hệ thống giao thông ngành hàng hải gồm hệ thống các cảng biển, các cơ sở đóng sửa chữa tàu, đội tàu biển, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế... để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Với những định hướng mở trong đầu tư hạ tầng ngành Hàng hải, Cục Hàng hải Việt Nam luôn chào đón, hoan nghênh các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm, hợp tác đầu tư vào lĩnh vực hàng hải. Về phía Cục Hàng hải Việt Nam luôn tạo điều kiện và tiếp tục đẩy mạnh cải cách về các thủ tục hành chính, môi trường đầu tư để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực hàng hải tại Việt Nam.

ĐƯỜNG DÂY NÓNG

Điện thoại:  +84-(0)24.37683191
+84-(0)914689576
Thời gian tiếp công dân:  Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần
- Sáng từ: 8 giờ 00 phút đến 11 giờ 30 phút
- Chiều từ: 13 giờ 30 phút đến 17 giờ 00 phút.
Lịch tiếp công dân:  - Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam tiếp công dân định kỳ một ngày trong một tháng vào ngày thứ Hai của tuần cuối tháng
- Cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp công dân thực hiện tiếp công dân từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần.

HÌNH ẢNH & VIDEO

LIÊN KẾT WEBSITE

THỐNG KÊ TRUY CẬP

    • Tổng số :24904125
    • Online: 104